Phần lớn hệ thống kế toán của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển có hai phần cơ bản: Kế toán tài chính và kế toán quản trị. Kế toán tài chính có tính pháp lệnh, bắt buộc các
công ty phải mở sổ sách kế toán để theo dõi hoạt động sản xuất kinh doanh của mình theo chuẩn
mực kế toán quốc gia. Kế toán quản trị mà trọng tâm là kế toán chi phí, nhấn mạnh việc cung cấp
thông tin cho sử dụng nội bộ của người quản lý, đặt trọng tâm cho tương lai nhiều hơn.
Làm sao áp dụng kế toán chi phí thực tế kết hợp chi phí sản xuất chung cố định theo dự toán?
Xem thêm:
>>> Hoàn thiện sổ sách kế toán>>> Quyết toán thuế>>> Nhận làm báo cáo tài chính năm
Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là nội dung cơ bản của kế
toán quản trị. Nhân viên kế toán được phép linh hoạt chọn 1 trong 3 hệ thống kế toán chi phí
đang ứng dụng như : kế toán chi phí thực tế (practical cost), kế toán chi phí thực tế kết hợp với
chi phí dự toán (normal cost - có thể tạm dịch là kế toán chi phí sản xuất thông dụng?), kế toán
chi phí định mức (standard cost – hay có thể gọi là kế toán chi phí sản xuất tiêu chuẩn?). Giá
thành sản phẩm bao gồm 3 khoản mục chi phí : Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân
công trực tiếp và chi phí sản xuất chung. Tính giá thành sản phẩm (SP) ứng dụng một trong hai
phương pháp : Phương pháp tính giá thành theo công việc và phương pháp tính giá thành theo
quá trình sản xuất. Trong mỗi phương pháp, tùy thuộc vào tình huống kinh tế cụ thể để xác định
cách tính chi phí sản phâm dở dang (thường dùng phương pháp ước lượng tương đương) và cách
tính giá thành sản phẩm. Hiện nay, phương pháp tính giá thành trên cơ sở hoạt động hay gọi tắt
là phương pháp tính giá thành ABC (Activity – Based – Costing) đang được nhiều công ty lớn
trên thế giới ứng dụng rộng rãi và được xem là phương pháp tính giá thành chính xác nhất so với
các phương pháp tính giá thành theo truyền thống

Kế toán chi phí sản xuất thực tế, nghĩa là các yếu tố đầu vào của chi phí sản xuất phải
tính và hạch toán ngay từ đầu theo chi phí phát sinh thực tế.

Trong hệ thống kế toán hiện hành của chúng ta hiện nay chú trọng phần lớn là kế toán chi
phí sản xuất thực tế và cuối kỳ mới tính được giá thành sản phẩm. Các doanh nghiệp SX nước ta
thường lập giá thành định mức đơn vị sản phẩm ứng với một mức sản xuất nhất định, không linh
hoạt theo nhiều mức độ sản xuất khác nhau. Điều này gây khó khăn cho nhà doanh nghiệp trong
việc định ra giá bán cạnh tranh, giá bỏ thầu … tại một thời điểm bất kỳ trong kinh doanh.

Xét tính chất phát sinh của từng khoản mục chi phí có thể tập hợp ngay cho việc tính
toán nhanh giá thành sản phẩm phục vụ cho việc tiêu thụ, gồm có :

- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp hầu như có thể tính
ngay được do các chứng từ nội bộ công ty cung cấp, như các phiếu yêu cầu nguyên vật liệu, lệnh
sản xuất, phiếu thời gian …

- Quá trình tập hợp, tính toán chi phí sản xuất chung thực tế kịp thời cho việc tính toán
nhanh giá thành sản phẩm thực tế lại gặp nhiều trở ngại, thông thường cuối kỳ (cuối tháng) mới
xác định được. Chi phí sản xuất chung phụ thuộc chủ yếu vào các chứng từ bên ngoài như hóa
đơn tiền điện, nước, điện thoại, chất đốt, … các hóa đơn này đến cuối kỳ các nhà cung cấp mới
tính và báo cho doanh nghiệp hoặc có thể đầu kỳ sau mới gởi cho doanh nghiệp. Mặc khác sản
phẩm của công ty sản xuất hoàn thành nhập kho, tiêu thụ xen kẻ liên tục, công ty cần có ngay chi
phí sản xuất chung để tính toán nhanh giá thành sản phẩm làm cơ sở để xác định đúng giá bán
ra.

Để tính nhanh giá thành sản phẩm, nhân viên kế toán cần phải có thông tin chính xác 3
khoản mục chi phí, trong đó chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp dễ
dàng xác định, còn chi phí sản xuất chung thì khó khăn hơn, thường công ty phải ước tính chi phí
sản xuất chung.

Kế toán CPSX theo chi phí thực tế kết hợp với chi phí dự toán
Kế toán chi phí sản xuất theo chi phí thực tế kết hợp với chi phí SX chung dự toán, nghĩa
là hai yếu tố đầu vào nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp phải tính và hạch
toán ngay từ đầu theo chi phí phát sinh thực tế, còn chi phí sản xuất chung được ước tính phân
bổ để tính giá thành sản phẩm kịp thời, cuối kỳ điều chỉnh lại khi tập hợp đầy đủ chi phí sản xuất
chung thực tế.

Ưu điểm của cách tính này là cung cấp nhanh giá thành đơn vị sản phẩm ứng với nhiều
mức độ sản xuất khác nhau tương đối gần đúng với giá thành thực tế tại bất kỳ thời điểm nào mà
không cần đợi đến cuối kỳ, giúp nhà doanh nghiệp có quyết định kịp thời trong kinh doanh. Nếu
có thông tin này thì doanh nghiệp sẽ có khả năng định một giá cạnh tranh để được hợp đồng và
tăng thị phần trong thị trường. Ngoài ra, trong lĩnh vực sản xuất máy móc thiết bị hạng nặng
hoặc trang bị quốc phòng, có rất nhiều công việc hoặc hợp đồng mà doanh nghiệp chỉ dành được
bằng cách đấu thầu. Doanh nghiệp cần có giá thầu hợp lý đủ sức cạnh tranh với các doanh
nghiệp khác, đồng thời mang lại lợi nhuận hợp lý cho doanh nghiệp.

Theo Thông tư 89/2002/TC-BTC ngày 9.10.2002, Bộ tài chính hướng dẫn các doanh
nghiệp hạch toán trước chi phí SX chung cố định theo số dự toán để tính giá thành SP trong kỳ ở
mức độ hoạt động trung bình, các chi phí SX chung cố định thực tế cuối kỳ lớn hơn số đã tính
phân bổ cuối kỳ được phép hạch toán ngay vào giá vốn hàng bán trong kỳ. Cụ thể :
- Khi phát sinh chi phí SX chung cố định, ghi :
Nợ TK 627 – Chi phí SX chung (chi tiết chi phí SX chung cố định)
Có các TK 152,153,214,331,334,…
- Cuối kỳ, phân bổ và kết chuyển chi phí SX chung cố định vào chi phí chế biến cho mỗi
đơn vị sản phẩm theo mức công suất bình thường, ghi :
Nợ TK 154 – Chi phí SXKD dở dang
Có TK 627 - Chi phí SX chung (chi tiết chi phí SX chung cố định)
- Trường hợp mức sản phẩm thực tế SX ra thấp hơn công suất bình thường thì kế toán
phải tính và xác định khoản chênh lệch chi phí SX chung cố định không phân bổ vào giá thành
sản phẩm được hạch toán ngay vào giá vốn hàng bán trong kỳ, ghi :
Nợ 632 – Giá vốn hàng bán (chi tiết chi phí SX chung cố định không phân bổ)Có TK 627 - Chi phí SX chung
Tuy nhiên Thông tư này còn một số hạn chế như :
° Chưa chỉ ra được phương pháp xác định chi phí SX chung cố định trung bình tại một
DN dựa trên tiêu chuẩn nào?

° Thời điểm tính và kết chuyển chi phí SX chung cố định vào cuối kỳ, và như vậy cuối kỳ
mới có giá thành SP, vẫn chưa đáp ứng được thông tin giá thành cần thiết cho nhà quản trị tại bất
cứ thời điểm nào trong kỳ SXKD.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

 
Dịch vụ kế toán trọn gói tại Hà Nội © 2015.| LH: 0127.8888.396
Top